Ý đồ quân sự của các bên Trận_Kiev_(1941)

Nước Đức Quốc xã

Trang 3 - Chỉ thị 21 của Hitler đề cập đến chiều sâu nhiệm vụ của quân đội Đức Quốc xã tại cánh Nam mặt trận Đức-Xô

Trong kế hoạch Barbarossa, giới quân sự nước Đức Quốc xã coi việc đánh chiếm Ukraina, vùng Hạ Volga và vùng Kavkaz có vai trò quan trọng không kém việc đánh chiếm thủ đô Moskva và thành phố Leningrad. Nếu như việc đánh chiếm Moskva và Leningrad lấy ý nghĩa chính trị - quân sự làm trọng thì việc đánh chiếm các vùng công nghiệp, nông nghiệp và dầu mỏ ở miền Nam Liên Xô có ý nghĩa kinh tế - quân sự sống còn đối với nước Đức trong cuộc chiến với Liên Xô. Tại mặt trận phía nam phần lãnh thổ Liên Xô ở châu Âu, Kế hoạch Barbarossa đặt ra nhiệm vụ mở những chiến dịch đột kích sâu bằng xe tăng để bao vây và tiêu diệt những lực lượng chủ yếu của Liên Xô đóng tại vùng biên giới, ngăn chặn không cho các lực lượng còn sức chiến đấu của họ rút vào nội địa; tiến hành truy kích và chiếm giữ những tuyến chiến đấu sao cho không quân Liên Xô không thể ném bom xuống đất Đức. Mục tiêu cuối cùng cho các chiến dịch là tiến đến tuyến Volga - Arkhalghensk, tạo điều kiện để khi cần thiết có thể dùng không quân đánh tê liệt khu vực công nghiệp quân sự cuối cùng của Liên Xô tại vùng Ural.[8] Sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, cánh quân phía nam của quân đội Đức quốc xã sẽ trở thành một trong ba mũi hợp vây cuối cùng đối với quân đội Liên Xô tại hướng Moskva. Hitler tin rằng, mất nguồn đầu lửa từ Baku, nguồn lúa mỳ ở Ukraina và khu công nghiệp Donbass trù phú, Liên Xô sẽ suy yếu nghiêm trọng và đi đến phá sản về kinh tế.[9]

Hướng đột kích chủ yếu của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) nhằm vào khu vực của các tập đoàn quân 5, 6, và 26 (Liên Xô) trên cánh bắc từ Koven - Lvov - Vladimir Volynsky đến Peremysl gồm tập đoàn quân dã chiến 6, tập đoàn quân xe tăng 1, tập đoàn quân 17 với 300.000 quân, gần 5.500 khẩu pháo, 700 xe tăng. Tập đoàn quân xe tăng 1 của tướng Ewald von Kleist tấn công ở giữa. Các tập đoàn quân dã chiến 6 của thống chế Walther von Reichenau và 17 của tướng Carl-Heinrich von Stülpnagel tấn công bên sườn trái và sườn phải của tập đoàn quân xe tăng 1. Trên khu vực đột kích ở Vladimir Volynskiy, quân Đức đã tạo được ưu thế cục bộ gấp ba lần về binh lực và gấp hai lần về pháo. Tại hướng đột kích thứ yếu nhằm vào khu vực Tây Nam Karpat trên dải phòng ngự của các tập đoàn quân 9 và 12 (Liên Xô) từ Przemysl - Serbauti - Iasi đến bờ biển Đen gồm tập đoàn quân dã chiến 11 (Đức), các tập đoàn quân Romania 3 và 4. Trong đó, tập đoàn quân dã chiến 11 tấn công ở giữa, hai tập đoàn quân Romania 3 và 4 tấn công ở hai bên sườn.[10]

Ý đồ của Thống chế Gerd von Rundstedt, Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) là tạm thời phòng thủ tuyến biên giới giữa Hungary và Romania với Liên Xô; sử dụng lực lượng bộ binh cơ giới và xe tăng rất mạnh gồm ba tập đoàn quân Đức ở cánh bắc dồn các tập đoàn quân của Liên Xô xuống phía nam, chia cắt Quân khu Kiev với Quân khu đặc biệt miền Tây. Sau đó mới sử dụng cánh Nam gồm một tập đoàn quân Đức và hai tập đoàn quân Romania vượt sông Prut phối hợp với cánh Bắc hợp vây các tập đoàn quân Liên Xô ở hữu ngạn sông Dniestr.[11]

Quân đội Liên Xô

Tại các quân khu Kiev và Odessa, Quân đội Liên Xô bố trí hai tuyến phòng ngự. Tuyến phòng ngự trên biên giới mới được tạo nên sau chiến dịch Tây Belorussia và Bessarrabia năm 1939 - 1940 gồm các lực lượng cơ bản của các tập đoàn quân 5, 6, 26, 12 và 9. Tại quân khu đặc biệt Kiev, phòng ngự trên tuyến biên giới cũ gồm lực lượng còn lại của các tập đoàn 5, 6, 12, 26, các quân đoàn cơ giới 15, 22 và tập đoàn quân 16. Sâu trong nội địa cách biên giới từ 250 đến 300 km có các quân đoàn cơ giới 4, 8, 9 và 19 đang trong giai đoạn xây dựng. Tổng số xe tăng của bốn quân đoàn này lên đế hơn 750 chiếc nhưng lại chỉ có 163 chiếc xe tăng chủ lực KV và T-34 là có thể đương đầu với xe tăng T-IV của Đức; số còn lại đều là các xe tăng hạng nhẹ T-26, T-28 và BT-7.[10] Tại quân khu Odessa, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô chỉ bố trí ở khu vực biên giới mới tập đoàn quân 9, các quân đoàn kỵ binh 16 và 18. Trên tuyến biên giới cũ trên sông Dniestr, đến ngày 7 tháng 7 mới triển khai tập đoàn quân 18 với biên chế 2 quân đoàn cùng với quân đoàn kỵ binh 2 và quân đoàn cơ giới 2 sử dụng toàn xe tăng hạng nhẹ T-26 và BT-7.[11]

Phương án phòng thủ cơ bản của Quân đội Liên Xô là sử dụng các cứ điểm đang được xây dựng trên tuyến biên giới mới và các cứ điểm đã có trên tuyến biên giới cũ để kìm chân các cánh quân chủ lực của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức); sau đó kéo các quân đoàn cơ giới từ tuyến trong ra phản đột kích, đẩy lùi quân Đức về bên kia tuyến biên giới. Tất cả đã được hoạch định trong phần kế hoạch KOVO-41 dành cho các quân khu. Tuy nhiên, do mệnh lệnh chuyển trạng thái chiến đấu từ Bộ Tổng tư lệnh tối cao đến với Phương diện quân Tây Nam quá muộn (chỉ hơn một giờ trước khi quân Đức phát động tấn công), ý đồ phòng thủ tại chỗ đã bị phá sản.[12]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_Kiev_(1941) http://ww2stats.com/cas_ger_okh_dec41.html http://www.9may.ru/galery/page1/ http://militera.lib.ru/memo/ http://victory.rusarchives.ru/catalogue/ http://books.google.com.vn/books?hl=vi&id=HP3-9NNz... http://books.google.com.vn/books?id=5GCFUqBRZ-QC&p... http://books.google.com.vn/books?id=7MA-QiI2jM8C&p... http://books.google.com.vn/books?id=HP3-9NNz71sC&p... http://books.google.com.vn/books?id=J8ideJ9KDh0C&p... http://books.google.com.vn/books?id=L_xxOM85bD8C&p...